Cảm
nghĩ của Khổng Đức
Với tính cách cố tri chí thiết, không thể không
viết đôi dòng cảm nghĩ về phòng tranh của Cù Nguyễn, nhưng khi cầm
đến bút mới thấy bao khó khăn.
Tranh của Cù Nguyễn quá đồ sộ qui mô, tất cả
là 40 bức tranh sơn dầu; nói về lượng bức nhỏ nhất 60 x 75 cm, còn
là 20 bức khổ lớn từ 80 x 80 đền 100 x 130; còn về phẩm ngoài ba bức
có hình tượng thiếu nữ là Cung trăng,Suối tóc, Đồi mộng mơ, không phải
dài dòng vì ai cũng có thể hiểu dù có nhiều cách thế khác nhau.
Còn lại 37 bức là cả một thế giới của màu sắc, đường nét, bố cục
đầy biến đổi, dù vẫn mang những danh hiệu vô cùng hấp dẫn: Cây Nhân
sinh, Những con đường, Hình và bóng, Tây nguyên lễ hội, Sóng hoa, Đồi trăng, Phố xanh, v…v… Nhưng là loại
tranh không hình tượng (non-figuratif),
giống như tranh trừu tượng mà
không mang dấu ấn gì của trường phái nầy; có thể nói đó là kết tinh
của hơn 50 năm sống lăn lóc trong nghệ thuật. Cù Nguyễn cũng từng thổ
lộ là không học, không chịu ảnh hưởng
của trường phái hội họa nào, mà chỉ tự học hỏi, tự tìm tòi
với sự đam mê của bản thân. Điều này quá rõ Cù Nguyễn luôn luôn cố
tạo dựng cho mình một bản sắc, một đường lối riêng biệt, nên từ năm
1961, lúc mới ngoài 20 tuổi Cù Nguyễn đã đạt được huy chương vàng về
hội họa giữa Sàigòn hoa lệ này. Tuy nhiên vẫn không lạc ra ngoài cái
quỉ đạo trào lưu tiến hóa của nhân loại là quay về với nội tại,
với tâm linh, xa rời cái thực trạng ngoại hình đầy bụi bặm phũ
phàng của thiên nhiên; không sao chép thiên nhiên như một đối tượng, mà
chỉ quan sát, quán thông, khế hợp với nó để moi sâu, lột trần, thu
hút cái bản chất thực tại tiềm ẩn trong đó. Vì vậy có thể nói
nghệ thuật của Cù Nguyễn là nghệ thuật thuần túy – nghệ thuật phát
sinh chân lý – nghệ thuật được mở rộng với cảm tính, với tự do,
phát huy đến tận cội ngưồn thực
tại siêu việt của cái thế giới bên kia (de ce qui est au-dela), nó bao hàm cả vận mệnh, cả cuộc
sống của con người, trong đó có liên quan đến sứ mệnh của dân tộc,
của lịch sử. Mỗi bức tranh của Cù Nguyễn là một thế giới hình
trạng riêng biệt (forme) từ đường nét đến màu sắc. Đây là điểm xuất
phát đáng kể khi tuổi đời của họa
sĩ đã vào thế hệ ngoại thát thập (sanh năm 1938) mà sức sáng tạo,
óc tưởng tượng vẫn còn rạt rào mang đầy tính chất thơ. Hay nói cho
đúng hơn Cù Nguyễn đã sáng tác trong tư thế ý thức mà vô thức, tư
thế của trực giác thi tính (intuition
poetique) với cái âm điệu của tâm linh – như Valery, thi hào của
Pháp từng nói “ cái hay cái đẹp của một bài thơ phải có âm điệu
của người nữ lí tưởng, đó là âm điệu của tâm linh (la plus belle poesie a la voix d’une femme
ideale, mlle Âme). Thật ra bức
tranh cũng là một bài thơ (thi trung hữu họa, họa trung hữu thi), bức
tranh đẹp là tự nó như có khí lực, đúng như Tạ Hách đời Lục triều
của Trung Quốc từng nêu là “khí vật sinh động”, là sự biến hóa của
khí thế có sức truyền đạt thành ra như có âm thanh. Đặc biệt trong
bố cục thường có nhiều khoảng trống (vide), nó khác hẳn với hội
họa tây phương mà giống đông phương. Khoảng trống tự nó cũng có những
vai trò vững chắc ngang hàng với màu sắc và đường nét – nó là tâm
linh xuất phát từ chủ thuyết Đạo giáo. Cái dữ kiện ưu tiên là khái
niệm Khí, cái khí tạo nên sự sống nên gọi là sinh khi. Chính dữ
kiện đó làm cho hội họa trở nên sống động, thiếu vắng sinh khí chính
là dấu hiệu làm cho hội họa trở nên tồi tệ ngay. Tương quan của khí
chính là âm dương, nó là hiện thân của qui luật năng động quản lý cả
vạn vật, nó là bóng tối là ánh sáng v…v….
Viết đến đây chắc có bạn đọc đã cho tôi là quá thiên lệch, quá ca
tụng bạn cố tri… Thật tế tôi đã xem tranh Cù Nguyễn với tính cách
của người thưởng ngoạn; mà theo nghĩa hiện đại, thưởng ngoạn đúng
nghĩa là tham dự hội nhập vào sự sáng tạo, nó chủ động. Hay đúng
hơn thưởng ngoạn là tái sáng tạo, người thưởng ngoạn không phải là
bất động gói kín trong sự tiếp thụ tác phẩm; mà là dùng sự tự do
của mình để tái sáng tạo, thẩm tra sự biểu hiện của tác giả. Đối
với loại tranh vô hình tượng (non-figuratif)
chỉ có màu sắc, đường nét và
hình trạng (forme) nên
thưởng ngoạn được nhiều lợi thế tha hồ mà tưởng tượng mà sáng tạo.
Như vậy cái thế giới do nghệ thuật gia sáng tạo tức tác phẩm chỉ
mới là tiền đề, chỉ đến khi được tiếp thụ, được thưởng thức mới
đạt được sự thể hiện chân chính, mới gọi là hoàn thành. Nói rõ hơn
là nghệ thuật gia với người thưởng ngoạn cùng tạo nên sản phẩm nghệ
thuật.. Cụ thể hơn chúng ta hãy dùng ngay một vài bức tranh của Cù
Nguyễn để làm thí dụ. Như bức Tây Nguyên lễ hội (số 30) được diễn
tả như một bông hoa màu cam xòe cánh trên nền xanh đậm (Ờ đây tôi chỉ xin nêu lên đôi nét chính).Màu xanh đậm là màu của
núi rừng Tây nguyên, cũng như màu da cam là màu của đất cát”ba-dzan”,
xem tranh TNLH lại nhớ đến câu thơ của Đinh
Như Thúy cũng nói về mùa lễ hội : “nhắm khít mắt, nhắm khín mắt đang mùa cồng chiêng…. Rừng lùi
xa huyền bí lùi xa linh thiêng…” Trong cánh hoa màu cam lại có
những vòng tròn dở dang như những “
ẩn ức va đập ẩn ức …”Nhưng các bạn có thể nghĩ, có thể tưởng
tượng khác tùy theo hoàn cảnh buồn
vui hay bận rộn nhàn hạ….
Chúng ta hãy xem đến bức “mắt lưới” (số 13), lưới đây chắc là lưới cá, làm ta liên
tưởng đến biển cả hay đến hình ảnh của một cuộc sống ràng buộc
chằng chịt như ca mắc vào lưới, tự mình không sao tìm ra lối thoát….
Đường cong của bố cục với những hình trạng uyển chuyển như những con
mắt dòm ngó đủ chiều…. Có những vòng tròn linh động… Theo hội họa
trung quốc nét bút là sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên. Nó
là hiện thân của con người trong quá trình thể hiện cử chỉ của sự
sáng tạo, nên nó là khí, là âm dương (đậm lợt), là thiên địa, vạn
vật, tất cả vừa đảm nhiệm vừa chịu dựng nhịp điệu và sự xung động ẩn bí của
con người. Chúng ta hãy xem thêm một bức nữa là “ Vươn lên – số 38”,theo nhãn quan méo mó của tôi nó là một
bức tranh mang tính tổng hợp Đông tây. Nó có đủ những yếu tố cơ bản
của sự sáng tạo như đã trình bày ở trên. Đặc biệt có những khoảng
trống, vô hình mà như hữu hình khiến ta tưởng đến như một con người
đang cất bước, cho nên nó mang ý nghĩa “vươn lên”. Ở đây cái Tâm trú
ngụ trong khoảng trống như tập trung
khí để phân phối khắp cơ thể của nội tạng. Vì khoảng trống đó mà
Tâm con người trở thành qui luật hay là tấm gương chiếu sáng cho chính
nó và thế giới….
Tranh của Cù Nguyễn quá đồ sộ không phải chì
vì chất lượng như tôi đã phác họa
ngay đầu bài viết, mà cái đồ sộ đáng kính chính là phần ẩn tàng
dấu kín, nó là chân lý là ý tưởng
ở phía sau mỗi bức tranh mà trong giới hạn của một bài viết
về cảm nghĩ không thể nào nói hết được. Để kết luận cho bài viết, tôi
hãy tạm thời mượn lời của Kandinsky mà nói rằng: “ Nghệ thuật của
tranh Cù Nguyễn có khả năng cung cấp cho chúng ta yếu tố để trầm tư
và cũng là chỗ để cho tâm hồn nghỉ ngơi.
Suýt nửa thì tôi quên, chủ đề của phòng
tranh Cù Nguyễn kỳ này là “Hướng tới tương lai”, tương lai đây không
phải là bản thân tác giả mà là nhắm vào tầng lớp thanh niên, cầu mong có người
noi theo gương cần cù của tác giả
mà thiết lập được những hệ thống qui luật mới mẻ cho nền hội họa
Việt Nam.
Khổng Đức
Bản do tác giả gởi
Bản do tác giả gởi
1 nhận xét:
Tranh của Cù Nguyễn chất lượng, chứa đựng nhiều chân lý phía sau. nhu cầu in tranh dán tường
Đăng nhận xét