Tiểu luận - Khổng Đức dịch
Jean - Paul Sartre (1905- 1980),
nhà triết học nổi tiếng của Pháp, cũng là nhà hoạt động văn học và xã hội, là
đại biểu chính của chủ nghĩa tồn tại, đặc biệt là mỹ học. Niềm thích thú triết
học của Sarte phát sinh từ thời còn ở trung học, đến năm 1924 ông đậu vào học
viện cao đẳng ở Paris, năm 1927 đã đạt được học vị tiến sĩ triết học. Năm 1933
được học bỗng du học ở Đức, nghiên cứu triết học, dưới sự lãnh đạo nổi tiếng về
hiện tượng học của Husserl, tìm hiểu những trước tác của Kierkegard, Heidegger,
Hegel... trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ 2, ông phục vụ quân dịch
nên bị quân Đức bắt làm tù binh.
Đời ông, trước tác rất phong phú,
về triết học và mỹ học có những tác phẩm chính: Tưởng Tượng (1938), Tưởng tượng
tâm lý học (1940), Tồn tại và hư vô (1943), Chủ nghĩa tồn tại là chủ nghĩa nhân
bản (1946), Văn học là gì (1947), Baudelaire (1947), 5 tập Cảnh ngộ (1964), Phê
phán Biện Chứng Pháp (1960), ngoài ra còn viết rất nhiều tác phẩm văn học như
La Nausee, Le Mur, Les Mots, và các kịch bản.
I- Tư tưởng triết học của Sartre
:
Triết học của Sartre có thể chia
làm 3 giai đoạn: Hiện tượng học, chủ nghĩa tồn tại, và chủ nghĩa Mác với chủ
nghĩa tồn tại. Trọng tâm triết học của Sartre là nhằm giải quyết mối quan hệ
giữa con người và thế giới. Đó là vấn đề ý thức và mối quan hệ với bộ phận tồn
tại bên ngoài. Ông dùng khái niệm tự do là điểm chủ yếu để giải quyết vấn đề.
Chủ trương triết học ban đầu của ông là bản-thể luận và tâm-lý học của hiện-tượng
học mà tư tưởng bắt nguồn từ Husserl và Heidegger. Trong hiện-tượng học của
Hussserl là khái niệm ý thức thuần túy và nguyên tắc ý hướng tính ảnh hưởng đến
Sartre rất sâu; thế nhưng ông lại cự tuyệt lập trường của chủ nghĩa duy tâm
tiên nghiệm của Husserl. Sartre cho rằng hiện-tượng học nên xuất phát từ ý thức
thuần túy, và nên dùng nguyên tắc ý hướng tính để chứng minh. Nó hợp với chủ
thể tư duy của Descartes “tôi tư duy là tôi hiện hữu”, có thể đưa đến nhị
nguyên luận của sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nhận thức. Cái tư duy
của Descartes là một ý thức phản tỉnh, chứ không phải là tồn tại căn bản. Tất
nhiên cần phải đi sâu vào phía sau của “tôi tư duy”, mới có thể phơi bày được
sự đối lập của đối tượng, không có chủ khách thể. Ý thức tiền phản tỉnh, đó là
ý thức có trước hoạt động nhận thức của con người, và là cơ sở tiền đề của hoạt
động tư duy. Đó là ý thức nguyên thủy chân chính, là sự tồn tại kín đáo; triết
học nên lấy điều đó làm điểm xuất phát. Trong sự nghiên cứu tưởng tượng và tình
cảm, Sartre phát huy hiện-tượng học tiến thêm một bước nữa; ông cho rằng tình
tự là ý thức của thế giới, nó cấu tạo thành tưởng tượng, tách rời và hư vô hóa
hành vi. Bản-thể luận hiện tượng học của ông là theo sự xuất phát của hiện-
tượng học mà lý giải ý thức và mối quan hệ của tồn tại. Ông cho rằng hiện -
tượng của tồn tại là tổng thể hiện - tượng học lại có liên quan đến ý thức. Tồn
tại là cơ sở của tất cả hiện tượng, nó có đầy đủ tính hiện tượng, lại còn có
tính siêu việt. Sự tồn tại của hiện tượng siêu việt là tự-tại (en-soi) của tồn
tại, tự-vi (pour-soi) của tồn tại, là tồn tại của tưởng tượng. Tự-tại của tồn
tại là không có duyên cớ gì cả, nó là cơ sở và nguyên hình của tất cả sự tồn
tại. Nhưng lại không cùng đẳng cắp với sự vật cụ thể tồn tại. Nếu theo bản tính
mà nói, ý thức là một thứ hư vô, thì hư vô không có tính tồn tại, nó là sự hư
vô hóa của tồn tại.
Nội dung chủ yếu của tư tưởng
triết học Sartre là chủ nghĩa tồn tại, trong đó nó bao hàm ba ý tưởng chính:
1- Tồn tại có trước bản chất. Ông
cho rằng sự tồn tại là trước tiên của con người, về sau mới theo tư tưởng tự kỉ
mà tạo thành tự thân. Bản chất của con người không phải do trời sinh, không
giống như bản chất của sự vật, mà trước tiên là do con người quy định, bản chất
con người là do tự mình quy định lấy.
2- Con người là tuyệt đối tự do.
Bản chất con người đã do con người tự tạo ra, nên con người là tuyệt đối tự do,
nó có thể xuyên qua sự tự do mà chọn lựa, sáng tạo nên bản thân, trước mặt con
người có đầy đủ các thứ khả năng bao trùm, mỗi người đều có thể “tự mình chọn
lựa”, “tự mình sắp đặt”, bổ sung cho sự bao trùm đó.
3- Tha nhân là địa ngục. Con
người vốn tuyệt đối tự do, nhưng tha nhân và xã hội tóm lại là hạn chế sự tuyệt
đối tự do ấy. Do đó, giữa con người với con người luôn luôn có sự xung đột.
Nhưng sự xung đột lại hàm nghĩa nguyên thủy là tồn tại. Do đó tha nhân là địa
ngục: con người lại đối diện với một thứ hư vô, là một thế giới đầy phi lý.
Triết học của Sartre về sau lại
có ý đồ dùng chủ nghĩa tồn tại bổ sung cho chủ nghĩa Marx. Điều này biểu hiện
rõ trong tác phẩm “Phê phán lý tính biện chứng pháp”, đề xuất lý luận nhân học
biện chứng pháp. Ông cho rằng chủ nghĩa Marx hiện đại đã quên mất con người, từ
đó mới xuất hiện thành khoảng trống của nhân - học. Chủ nghĩa Marx nên dùng thực
tiễn cá nhân làm cơ sở, tức là nhân-học chân chính, do đó nên dùng chủ nghĩa
tồn tại bổ sung cho chủ nghĩa Marx.
II- Luận về tưởng tượng :
Vấn đề tưởng tượng là vấn đề then
chốt trong mỹ học của Sartre. Kết quả đối với việc thảo luận về vấn đề này Sartre
chịu ảnh hưởng hiện tượng học của Husserl; vấn đề được tập trung trong 2 tập
sách: Tưởng tượng và Tưởng tượng tâm lý học.
Đối với sự suy tư về vấn đề tưởng
tượng của Sartre là xuất phát từ triết học bản thể luận của ông. Sartre cho
rằng tưởng tượng là một thứ hoạt động, nguyên nhân không phải xuyên qua bản
thân của nó, mà chỉ là ý hướng hóa về một đối tượng tương tự như sự thay thế
tác phẩm do nội dung tâm lý hay vật lý cung cấp cho, cụ thể là chỉ hướng về một
đối tượng phi thực tại hay không có hiện diện nơi nào. Cho nên, ông nói rằng:
tưởng tượng là một sự phủ định đối với hiện thực, về bản chất nó là một thứ tự
do. Đương nhiên nói như thế không phải tưởng tượng là một thứ ảo tượng thoát ly
ra ngoài thế giới hiện thực, mà ông cho rằng tưởng tượng trước sau vẫn lấy thế
giới hiện thực làm cơ sở. Sartre nêu ra trong tưởng tượng có 4 đặc trưng:
1- Tưởng tượng là một thứ ý thức,
nó là một từ có thể biểu hiện mối quan hệ giữa đối tượng và ý thức; nói một
cách khác, nó chỉ phương thức biểu hiện đối tượng trong ý thức; hay như có
người muốn nói rằng: nó là đối tượng tự thân xuất hiện trong ý thức như là một
thứ phương pháp. Như tưởng tượng một cái ghế thì đó không phải là bản thân hiện
thực của cái ghế, mà chỉ là khiến cho cái ghế hiện thực biểu hiện trong ý thức.
2- Nó gần giống như tính chất của
sự quan sát. Nó là hoạt động tổng hợp nắm vững được đối tượng xuyên qua các thứ
tưởng tượng. Như hình dạng của một khối vuông là có 6 mặt; nhưng trong hiện
thực, dù nổ lực đến đâu chúng ta chỉ có thể thấy được 3 mặt qua một lần nhìn;
nhưng qua sự tưởng tượng thì hình dạng 6 mặt có thể hiện ra trong trí óc chúng
ta. Đó là do tác dụng của tính chất tưởng tượng gần giống với sự quan sát. Dĩ
nhiên là thứ tính chất ấy cần phải có một tiền đề cơ bản, tức bình thường chúng
ta đã biết rõ toàn diện của đối tượng.
3- Ý thức về đối tượng của tưởng
tượng tính được coi như là hư vô. Trong đối tượng của tưởng tượng là phi tồn
tại, bất cứ một sự tưởng tượng nào sống động đến đâu, khiến cho con người xúc
động hay có lực lượng như thế nào, đối tượng hiện diện của nó vẫn là không hiện
hữu, do đó tưởng tượng bao hàm ý hư vô.
4- Tưởng tượng là tính tự phát.
Như thế tính chất của tưởng tượng
có tác dụng gì trong mỹ học và nghệ thuật. Theo Sartre, bản chất của mỹ chỉ là
do tưởng tượng xác định. Ông nói rằng: “Sự vật hiện thực không phải là mỹ, mà mỹ
đích thực chỉ có giá trị trong sự tưởng tượng, và cái giá trị đó về kết cấu cơ
bản của nó là phủ định thế giới hiện thực. Sartre nói: cái tôi gọi là đẹp,
chính là đối tượng cụ thể hóa của những cái phi hiện thực. Những quan điểm của
Sartre hoàn toàn phủ định sự tồn tại trong thế giới hiện tượng, các sự vật có
khả năng gọi là đẹp, rõ ràng là sự lầm lẫn. Tuy nhiên nếu dùng nó để giải thích
cái mỹ trong nghệ thuật thì lại là một thứ hợp lý; vì nó chỉ ra được cái đặc
trưng quan trọng trong cái mỹ của nghệ thuật, tức là cái đẹp trong nghệ thuật
không phải là bản thân sự vật hiện thực, nó phải trải qua sự tưởng tượng sáng
tạo của nghệ thuật gia.
Sở dĩ Sartre dùng tưởng tượng để
xác định bản chất của Mỹ, là vì ông cho rằng khái niệm tự do dính liền với
tưởng tượng và Mỹ; ông cho rằng: con người sở dĩ dùng đến tưởng tượng, là vì nó
là thứ siêu nghiệm mang tính tự do. Nhưng nói ngược lại thì đó là một thứ tâm
lý và kinh nghiệm có chức năng tưởng tượng, mà cũng là điều kiện tất yếu của sự
tự do trong thế giới kinh nghiệm của con người. Tự do là điều kiện cơ bản để
thực hiện sự tưởng tượng, và tưởng tượng cũng là điều kiện tất yếu của con
người tự do. Ở đây tưởng tượng và tự do kết hợp chặt chẽ, không thể chia cắt ra
được, đến nỗi con người đâm ra hoài nghi là có phải Sartre rơi vào một thứ phạm
vi luận chứng tuần hoàn.
Một mặt khác, theo Sartre bản
chất của mỹ cũng là cơ sở của sự tự do. Mỹ không phải là thế giới hiện thực, về
căn bản nó thoát ra ngoài thế giới. Và muốn đến được điểm đó, chỉ có thể dựa
vào ý thức hoạt động tưởng tượng tự do. Theo cách nhìn của Sartre thế giới là
hư vô hóa, nó thoát ra và vượt bỏ hiện thực, có như thế mới có thể đạt được tự
do. Hơn nữa, bản thân của sự vượt bỏ đó cũng là tự do. Về căn bản mà nói, đó
cũng chính là xuyên qua sự thực hiện tự do tưởng tượng của nhà nghệ thuật. Do
đó mới thấy, sự tưởng tượng của Satre trong tư tưởng Mỹ học chiếm một địa vị vô
cùng quan trọng, nó tạo thành sự tự do, là cơ sở tồn tại của Mỹ.
Sartre còn tiến thêm một bước là
dùng quan điểm cơ bản của vấn đề tưởng tượng để phân tích tác phẩm nghệ thuật.
Ông cho rằng tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm do nghệ thuật gia tưởng tượng, tác
phẩm nghệ thuật là một thứ phi hiện thực. Ông dùng bức họa chân dung của
Charles vào khoảng thế kỷ thứ 8 làm thí dụ. Hình ảnh của Charles VIII trên bức
tranh không phải là Charles trong hiện thực, mà chỉ là do ý thức của họa sĩ
tưởng tượng ra, là vật liên quan đến ý hướng hoạt động. Họa sĩ sáng tác Charles
VIII chỉ là “vật giống với tính vật chất” nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của
họa sĩ. Thế nhưng, Sartre đã đề ra một sự bảo lưu, cho rằng nghệ thuật gia
không hoàn toàn sử dụng tâm lý tưởng tượng để thực hiện. Trong tác phẩm “Văn
học là gì”, ông đã chủ trương, tác phẩm văn học là do tác gia và độc giả cùng
chung tạo nên. Dĩ nhiên là nó bao hàm các tầng lớp ý tứ. Nghệ thuật gia sáng
tác ra vật giống với tính chất vật chất của nó, tưởng tượng chỉ là để đạt đến
trong bộ phận thực dụng, mà người thưởng ngoạn là căn cứ theo vật gần giống như
tính vật chất mà thực hiện tái sáng tạo, có như thế thì tác phẩm nghệ thuật mới
hoàn thiện.
III- Luận về Mỹ và Thẩm mỹ:
Đối với vấn đề bản chất của mỹ,
Sartre cho rằng nó xuất phát từ khái niệm “tồn tại”. Theo cách nhìn của ông thì
cái thế giới thực tế tồn tại là một thứ
“tồn tại tự tại”, một mảnh hỗn hợp hay là một khối hư vô to lớn, nó là sự ngẫu
nhiên và hoang liêu (absurde). Do đó,
trong thế giới thực tế tồn tại không hề có sự tồn tại của Mỹ, mỹ chỉ tồn tại
trong thế giới tưởng tượng. Vì vậy, ông mới nói rằng mỹ chỉ là do con người
sáng tạo mà thôi. Ở đây có thể tiến thêm một bước nữa là thấy rằng tưởng tượng
có một vị thế quan trọng trong việc thảo luận về Mỹ. Sartre chỉ rõ trong tác
phẩm nghệ thuật đối tượng của thẩm mỹ là một thứ phi hiện thực; như trong tác
phẩm hội họa những thứ hiện thực, tranh vải bố, màu sắc, không phải là đối
tượng Mỹ. Đối tượng thẩm mỹ là cái gì Mỹ, là một thứ phi hiện thực, hay nói một
cách khác, cái gì Mỹ không phải là thứ tri giác của kinh nghiệm, mà là do bản
tính của nó ở bên ngoài cái thế giới sự vật. Vật chất chỉ là công cụ chuyển tải
đối tượng thẩm mỹ, đối tượng chân chính của thẩm mỹ là phi hiện thực, chỉ do ý
thức tưởng tượng nắm được mà thôi.
Cái mỹ phi hiện thực phải có mấy
đặc điểm:
1- Mỹ là do con người sáng tạo.
Do đó tách ra khỏi sự tồn tại của người thì mỹ không còn tồn tại. Sự sáng tạo
ấy cùng lúc phải là sự phong phú của nghệ thuật gia, phải có cơ sở tưởng tượng
sáng tạo tính, sự sáng tạo ra mỹ là sự tồn tại chân chính, không thể chia cắt
ra, mang tính phổ biến và kì lạ, đó là cái đẹp sống động.
2- Mỹ có thể từ cái xấu xí chuyển
hóa ra. Sartre phân tích bức Guernica của Piscasso, đó là hành vi tàn sát nhân
dân đầy tội ác, hiện thực là hành động xấu xa, nhưng xuyên qua sự sáng tạo của
họa sĩ thì cái xấu xa tàn ác ấy thành ra cái đẹp. Nguyên nhân khi họa sĩ vẽ ra
cảnh tàn ác ấy, là tiến hành một sự tố cáo nghiêm chỉnh. Dĩ nhiên trong sự tố
cáo ấy vẫn tuân thủ cái quy luật của nghệ thuật trong sự tạo hình ra cái đẹp
vẫn không làm rối loạn sự yên tĩnh, trái lại trong tạo hình mỹ chỉ tăng thêm
chứ không làm phương hại đến lực lượng của tình cảm. Điều có thể thấy rõ tiền
đề chuyển hóa từ xấu thành đẹp là đối với cái xấu phải có thái độ phê phán phủ
định.
3- Mỹ là trình bày vận mệnh của con người, vì theo Sartre mỹ là máu
thịt của nghệ thuật, là sự tồn tại của nghệ thuật, sự biểu hiện của nghệ thuật
tự thủy chí chung là vận mệnh của con người. Cái sáng lạng của mỹ là ở phía
sau, xuyên qua cái đẹp đó, chúng ta chỉ thấy một thứ vận mệnh lạnh lùng vô tình
đó là con người - con người chúng ta, cái vận mệnh công kích con người. Đương
nhiên thứ hiển hiện ấy không phải phơi trần ra, mà là một thứ tổ chức với
phương thức phong phú và vô cùng phức tạp, chỉ hiển hiện trong tác phẩm nghệ
thuật. Thứ quan điểm mỹ học ấy của Sartre thể hiện đầy đủ trong chủ nghĩa triết
học tồn tại liên quan với chủ nghĩa xã hội tư bản, trong cách nhìn của cảnh
ngộ. Ông ta có câu nói nổi tiếng “tha nhân là địa ngục”; trong triết học của
ông ta, mối quan hệ giữa con người với con người là lạnh nhạt vô tình, mối quan
hệ ấy thường hay xung đột, thứ quan hệ lạnh nhạt và đối địch ấy biểu hiện vận
mệnh con người; và mỹ là biểu hiện thứ vận mệnh ấy.
Qua những nhận xét trên, Sartre
đối với mỹ có 2 đặc điểm:
1- Mỹ là hình thức và nội dung
kết hợp thành một toàn thể hữu cơ thống nhất, và mỹ thành ra sự phát triển và
biến hóa, nên từ cái xấu có thể biến đổi thành cái đẹp, cách nhìn đó bao hàm
một số nhân tố biện chứng.
2- Là mỹ có liên hệ đến vận mệnh
con người, nhưng cần phải thấy rõ, một mặt ông cho mỹ là phi hiện thực; mặt
khác cho rằng mỹ cần phải biểu hiện cuộc sống hiện thực của con người trong vận
mệnh, điều đó rõ ràng là sự mâu thuẫn nội tại. Tự xác định tính chất cơ bản của
mỹ, Sartre tiến hành nghiên cứu sâu về hoạt động thẩm mỹ. Ông chỉ ra hoạt động
thẩm mỹ là phải nắm vững cái đẹp phi hiện thực, hiểu rõ cái phương thức khách
thể phi hiện thực, ông nói rõ hoạt động thẫm mỹ là hiểu rõ đối tượng phi hiện
thực, nó không phải hướng vào hội họa hiện thực, mà là xuyên qua hiện thực của
bức vẽ tưởng tượng tạo ra đối tượng. Đó là căn nguyên của tính phi công lợi nổi
tiếng trong kinh nghiệm thẩm mỹ. Đối tượng thẩm mỹ là do ý thức tưởng tượng cấu
tạo và nắm vững cái giả thuyết phi hiện thực. Rõ ràng là ông ta vận dụng cái mỹ
của phi hiện thực để giải thích tính phi công lợi của hoạt động thẩm mỹ. Do đó
ông hoàn toàn tán đồng sự phán đoán thẩm mỹ của Kant. Đối với sự thưởng ngoạn
cái đẹp của mỹ nhân, ông thuyết minh rõ ràng, cho rằng trong khi ngắm nhìn
thưởng ngoạn một đối tượng hiện thực thì sự vật hiện thực sẽ “bất tri bất giác
nhập vào hư vô”; vì vậy đối với người thưởng ngoạn chỉ trình hiện “một thứ ý
tưởng phi hiện thực” và bản thân sự vật hiện thực rút lui ẩn tàng ở phía sau ý
tượng. Từ đó khiến cho kẻ thưởng ngoạn đối với đối tượng hiện thực sanh ra một
thứ tâm ý lạnh lùng. Chính từ ý nghĩa đó chúng ta có thể nói, cái đẹp cao sang
của thể xác nữ sẽ bị cái dục vọng của nó giết chết. Sự thật khi chúng ta ca
tụng cái đẹp “phi hiện thực” của người đẹp, chúng ta không thể đồng thời thưởng
ngoạn cái đẹp của nhục thể. Đối với dục vọng của cô ta, chúng ta cũng không còn
biết cái đẹp vì bị chìm đắm trong sự đam mê, chìm đắm trong sự tình cờ hoang
đường. Hiển nhiên Sartre căn cứ theo đó thuyết minh hoạt động thẩm mỹ, cần phải
bài trừ ý muốn chiếm hữu, không dính dáng gì đến việc lợi hay hại. Quan điểm
này là kế thừa và phát huy quan điểm của Kant.
Điểm thứ 2 là Sartre đem cái hoạt
động thẩm mỹ khẳng định đối với con người là tự do. Điểm cao độ của chủ nghĩa
tồn tại của ông được nhấn mạnh là sự tự do của con người, cho rằng “con người
là kẻ tự do”, con người tức là tự do. Cái hàm nghĩa cơ bản nhất của tự do là
trong thế giới tự ngã lựa chọn. Đối với việc nhấn mạnh sự tự do đồng nghĩa với
nắm vững cơ cấu tạo lý luận thẩm mỹ.
Sartre không gọi là khoái cảm
thẩm mỹ mà gọi là “hỉ duyệt thẩm mỹ”; vì coi cái hỉ duyệt thẩm mỹ là tiêu chí
thành công của tác phẩm. Đối với hỉ duyệt thẩm mỹ có 3 cấp bậc có liên hệ với
giới hạn của tự do. Ở cấp thứ nhất của hỉ duyệt thẩm mỹ trước tiên là con người
tự do ý thức nhận diện đối tượng của bản thân, nên đối với tính siêu việt, tự
do tuyệt đối với nhận thức là một thể.
Đến tầng thứ 2 “hỉ duyệt thẩm mỹ”
cùng lúc là một thứ sáng tạo. Tức là ý nói rằng, sự thu hoạch của mỹ cảm không
phải chỉ đối với đối tượng thẩm mỹ tự do nhận thức một cách tiêu cực, mà trong
sự thưởng ngoạn còn đạt được kết quả sáng tạo tích cực. Sự tái sáng tạo ấy, là
biểu hiện tính tưởng tượng trong quá trình sáng tạo.
Đến giai tầng thứ 3 là biểu hiện
vấn đề hiệu lực của tính mỹ cảm phổ biến. Ông đề ra hoạt động thẩm mỹ là một
thứ yêu cầu tuyệt đối là yêu cầu bất cứ người nào, tức nói về sự tự do, trong
khi cùng đọc một tác phẩm thì cùng phát sinh một thứ khoái cảm như nhau. Điều
kế tiếp là hoạt động thẩm mỹ tạo thành một thứ tình cảm đặc biệt, Sartre gọi là
con người dùng tình cảm làm mới lại, sáng tạo lại đối tượng thẩm mỹ, nếu đối
tượng thẩm mỹ làm xúc động con người, nó có thể xuyên qua nước mắt của chúng ta.
Tác phẩm nghệ thuật chỉ có xúc
tiến tư tưởng tình cảm của nghệ thuật gia mới có thể đả động đến tình cảm của
người thưởng ngoạn. Tình cảm phải cao quý. Trong sự tả tác không có đưa hiện
thực vào tác phẩm, mà tình cảm trong sinh hoạt hiện thực phải được thăng hoa
thành tình cảm của tự do rồi mới đưa tình cảm đó vào tác phẩm. Người thưởng ngoạn không phải
là gói kín bất đồng, tiếp thụ tác phẩm mà là dùng sự tự do của mình mà sáng tạo
và thẩm tra sự biểu hiện thế giới của tác giả. Như vậy cái thế giới do nghệ
thuật gia sáng tạo phải do nghệ thuật gia cùng với người thưởng ngoạn tự do hợp
lực duy trì
IV-Luận về nghệ thuật:
Như trước đây chúng ta đã chỉ ra,
Sartre cho rằng tác phẩm nghệ thuật là sản vật của tưởng tượng, và bản chất của
tưởng tượng là tự do. Sự thật ông cho rằng toàn bộ nghệ thuật đều dùng khái
niệm tự do làm trục trung tâm. Ông ban cho nghệ thuật định nghĩa: “nghệ thuật
là do sự tự do làm mới lại và nắm lấy thế giới. Tự do là một khái niệm chính
của chủ nghĩa tồn tại mỹ học, trong “tồn tại và hư vô”, Sartre đã từng chỉ rõ:
tự do không phải cái gì tồn tại mà nó là sự tồn tại của con người, con người
không phải có lúc là kẻ tự do, có lúc là kẻ nô lệ, nếu con người không hoàn
toàn triệt để tự do, thì sự sảng khoái không tồn tại. Định mệnh con người là tự
do, ý nghĩa ấy ngoại trừ tự do bản thân, con người không thể hạn chế tự do của
chúng ta, hoặc có thể nói chúng ta không thể đình chỉ sự tồn tại tự do và tự vi
là một. Thực tại của con người nghiêm chỉnh, nó vốn có cái hư vô cố hữu, cái đó
là sự tự do. Triết học của Sartre là chủ nghĩa tồn tại và mỹ học là một thứ chủ
nghĩa triết học nhân bản. Ông ta cho rằng sự tồn tại trước tiên của con người
là một thứ tự do, cái trung tâm của thứ tự do ấy là tự ngã lựa chọn. Nghệ thuật
dĩ nhiên là một thứ sáng tạo của con người, như thế nó vốn là một khái niệm tự
do cần cầm nắm, đồng thời cũng là xây dựng một thứ nghệ thuật là cơ sở tồn tại
của con người.
Sartre định nghĩa nghệ thuật
trước tiên là nắm vững thế giới, ông cho rằng hoạt động sáng tạo là thông qua
nó sản sinh hay nhìn lại cái đối tượng, thực tế là hoàn chỉnh hay làm mới lại
mục tiêu nổ lực nắm lại thế giới. Nghệ thuật nắm lấy thế giới, đặc điểm cơ bản
là thông qua tự do và tưởng tượng . Thứ nữa, cái động cơ chân chính của sự sáng
tác nghệ thuật là để thể hiện sự tự do. Một mặt nhà nghệ thuật vận dụng tự do
tiến hành sáng tác, xuyên qua sự sáng tác, sự tự do của nghệ thuật mới được
chứng thực. Một mặt khác, bản thân sáng tác của nghệ thuật gia dùng thế giới
tưởng tượng để trình bày sự tự do của con người. Do đó cái cơ sở thâm sâu của
tác phẩm nghệ thuật chỉ có thể là sự tự do của người. Tiếp theo cái định nghĩa
quy định đề tài của nghệ thuật chỉ là tự do, ông nói rõ tác giả chỉ có một đề
tài là tự do. Có thế mới thấy Sartre đối với việc xác định bản chất nghệ thuật
tuân theo quan điểm tự do của chủ nghĩa tồn tại. Phương diện hợp lý là ông vẫn
kế thừa cao độ mỹ học của Tây phương nhấn mạnh cái truyền thống ưu tiên của tự
do, khẳng định bản tính tự do của con người, yêu cầu nghệ thuật thành công cụ
tranh thủ tự do. Nghệ thuật là phi hiện thực, là một thứ tân sáng tạo, thế
nhưng trong đó vẫn bao hàm mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực, bởi vì
theo ông thì nghệ thuật là phải phản ảnh bộ mặt của thời đại. Hơn nữa, phản ảnh
hiện thực không phải là phục chế hiện thực. Nghệ thuật cần phải xuất phát từ
hiện thực, khi đi vào sáng tác thì ý nghĩa của nó chưa có trước khi nó tồn tại.
Tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo chỉ là chủ thể của nghệ thuật gia được thừa
nhận là tiền đề. Chỉ đến khi tác phẩm đó thưởng thức, được tiếp thụ thì chủ thể
của nghệ thuật gia mới đạt được sự thực hiện chân chính. Nhân đó, sáng tác và
thưởng ngoạn cùng giúp đở cho nhau, cả hai cùng tạo thành sự hoạt động của văn
nghệ. Sáng tác của nghệ thuật gia là thuyết minh, nó thừa nhận vai trò chủ thể
tính và tự do của người thưởng ngoạn; chỉ có vì tha nhân mới có nghệ thuật, chỉ
có thông qua tha nhân mới có nghệ thuật. Sự sáng tạo nghệ thuật chỉ trong
thưởng ngoạn mới có thể nói là hoàn thành; do đó bất cứ tác phẩm văn học nào
đều là một thứ gọi mời, là tác gia hướng về phía độc giả phát xuất sự gọi mời
tự do. Và người thưởng ngoạn, thưởng thức là thuyết minh nó thừa nhận chủ thể
tính và sự tự do của nghệ thuật gia. Cái quan điểm này của Sartre rõ ràng là
khải phát từ mỹ học tiếp thụ.
Nhấn mạnh sự hành động, đó là
tinh thần cơ bản của Sartre trong triết học của chủ nghĩa tồn tại. Tinh thần cơ
bản ấy cũng giống như sự lý giải quán xuyến chức năng văn nghệ xã hội của ông.
Tập trung nhất trong sự biểu hiện là thuyết “dấn thân” (Engager). Cái đề xuất mới mẻ nhất của ông là: “Văn nghệ nên dấn
thân vào sinh hoạt xã hội”. Văn học theo ông là gia nhập vào sự chiến đấu, tả
tác là phương thức yêu cầu của tự do, nếu bạn bắt đầu tả tác, không kể là bạn
có ý muốn hay không muốn, bạn cũng đã tự dấn thân rồi. Chính là xuất phát từ
thuyết dấn thân, mà ông chỉ trích quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật là sai
lầm. Ông đề cao giá trị bức Guernica của Piscasso, nguyên nhân chủ yếu của bức
họa là chống phát xít, tố cáo sự giết hại nhân dân Tây Ban Nha. Cái gọi là dấn
thân tức là tác phẩm văn nghệ sẽ có tác dụng đối với vấn đề sinh sống của xã
hội đương đại. Dấn thân tức là hành động. Văn nghệ dấn thân vào phương thức
sinh hoạt của xã hội là do đặc điểm cơ bản quy định của văn nghệ, chủ yếu là
thông qua các phương diện sinh hoạt hiện thực của xã hội đương đại ảnh hưởng
đến tác phẩm văn nghệ. Đồng thời dấn thân tức là vì người dân mà nói năng, tức
là trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà tranh thủ sự tự do. Nói cụ thể, là văn
nghệ dấn thân vào sinh hoạt xã hội, trước tiên là phải phơi bày trong cuộc sống
xã hội tồn tại những hiện tượng lạ hóa hay vong thân, và tiến đến là tiêu diệt
các hiện tượng lạ hóa đó. Điểm thứ 2 là phải trực tiếp phục vụ trong cuộc đấu
tranh chính trị, xúc tiến sự biến cách xã hội; kế tiếp là phát huy chức năng
phê bình xã hội. Thực chất nghệ thuật gia là phê bình gia. Thuyết dấn thân của
Sartre là đặc điểm cơ bản là hoàn toàn thể hiện triết học chủ nghĩa tồn tại. Nó
bao hàm nhân tố tích cực của chủ nghĩa tồn tại, cũng bộc lộ lý luận lầm lần của
chủ nghĩa này. Về mặt tích cực mà nói, thuyết dấn thân cực lực phê phán phái
duy mỹ chủ nghĩa, khẳng định văn nghệ cùng với xã hội tồn tại hiện tượng “dị
hóa” và phi chính nghĩa, đòi hỏi cải biến hiện trạng chủ nghĩa tư bản. Ông đòi
hỏi văn nghệ phải bảo vệ dân chủ và tự do, dùng cây bút bảo vệ chúng không
được, thì có lúc phải dùng đến vũ khí, đó là thể hiện tinh thần chiến đấu của
thuyết “dấn thân”. Nhược điểm chủ yếu của lý luận thuyết “dấn thân” là như sau:
1- Quá đề cao vai trò tác dụng
văn nghệ “dấn thân” vào cuộc sống xã hội
2- Ông muốn tranh thủ con người
cho con người được tự do là một thứ thoát lý tất yếu có tính khách quan, và
thực hiện tự do cá nhân một cách tuyệt đối khách quan, những điều đó tạo thành
mâu thuẫn nội tại trong thuyết “dấn thân” và thực tiễn; tuy nhiên, quan điểm
thẩm mỹ của ông vẫn đưa lại cho chúng ta nhiều ý kiến thích đáng, mới mẻ.
Khổng Đức
(08/2011)
Bản của tác giả gởi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét