Sự
liên hệ giữa nhà thơ, bài thơ và người đọc không phải như một thực tại tĩnh lặng
mà đó là sự hoạt động triển khai. Một hiện tượng mang tính thần thánh, một hiện
tượng giữa Anh và Em, một quá trình tương giao …(
Edward Hirsh)
Tôi là người ít giao du - nhất
là đối với giới văn nghệ sĩ - do đó với Từ Hoài Tấn tôi chỉ biết anh từ khi lui
tới quán cafe vỉa hè “Bông Giấy”, hình như chỉ trong năm sáu năm trở lại đây.
Biết Tấn là người làm thơ, nhưng tánh tôi vốn lười nên ít khi đọc thơ Anh, mãi
đến 3-11-2012, được anh tặng cho tập thơ “ Đi, đứng và chạy… với thời gian ”
vừa mới ra lò. Có lẽ do tên tập thơ đã đánh mạnh vào thị giác, tôi phải cầu cứu
đến các nhà thơ lớn: Baudelaire từng viết về hội họa hiện đại : “ Nó đi, nó chạy,
nó tìm kiếm. Nó tìm cái gì vậy? Nó tìm thi ca. Bài thơ là công việc của bước đi
có tính toán, chiếc dép co giãn tàn tạ và chiếc giầy đau thương rách nát. Nó đi
bằng cái đầu, hay đi trên dây…” J.
Maulpoix.
Holderlin lại viết: “ Làm
thơ là hoạt động thuần chân nhất trong tất cả các hoạt động. Vì thơ là trò chơi
tự do của sức tưởng tượng, chân chính đạt đến sự siêu thoát vô lợi hại.”
Cao Hành Kiện, người nghệ sĩ
lưu vong này từng được giải Nobel văn chương thì viết : “Tả tác là một thứ chạy
trốn, từ thực tại thiếu thốn chạy trốn vào cõi tưởng tượng để tìm lấy sự đầy đủ.”
Tôi mới bắt đầu đọc thơ THT,
và vừa đọc qua là mê ngay, tuy rằng thơ Tấn không phải là thơ dễ đọc, mà như J.J.
Maulpoix. nhận xét: Thơ là thứ đối tượng của ngôn ngữ khó khăn, một sự dũng
cảm, một công việc vĩ đại và biến hóa, đề xuất hay bắt buộc, là sự cô đọng tối
đa của sự kiện ngôn ngữ tập trung trong một không gian thu hẹp.
Tôi nhập vào thơ Tấn qúa dễ,
phải chăng chỉ vì đồng cảnh ngộ, cùng là những con người mang nỗi đau lìa bỏ
quê hương. Nên khi đọc đến bài “ Mùa mưa 2009” nước mắt tôi cũng tuôn ra
dầm dề như:
Những giọt mưa rơi mãi vào
quá khứ
Nơi ấy tuổi trẻ của tôi
Nơi ấy tình yêu của tôi
Mềm diu và đắng cay
Đằm thắm nỗi đau sự sống
Nỗi thương nhớ sắc nhọn
Cứa nát những đêm dài chốn
xa xôi.
Đúng như lời của Heidegger:
“ Thi ý là năng lực cơ bản - nơi con người cư trú. Thơ là hình ảnh nhắm vào ký ức,
cũng như tia sáng của nó…” Và càng thấm thía câu thơ của Chế Lan Viên: “Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở / khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Tôi vốn nghèo nàn dốt nát
nên phải mượn ý của các vĩ nhân để diễn tả ý tưởng của mình, đó là những lời của
Merleau-Ponty, của J. Maulpoix, như sau: “ sự tối tăm của chân tướng sự vật là
để bảo trì trạng thái thần thánh của nó, hay tác phẩm là cội nguồn của một hình
thức và ý nghĩa tiếp xúc với vô nghĩa”. Hay nói như Maulpoix: Từ của thơ không
phải nhắm vào ngữ nghĩa hẹp hòi của từ điển mà tìm đến cái tiềm năng và phản xạ
hỗ tương của nó. Làm mới và phân phối ngôn ngữ thành hình ảnh, nó nhắm vào ký ức
cũng như tia sáng của nó. Sự "ngần ngại kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa
mà bài thơ cũng ở giữa sự tước đoạt và khống chế “ J. Maulpoix.
Có như thế chúng ta mới hiểu
được bài thơ “Thơ rời tháng năm” của
Từ Hoài Tấn :
Những hàng sao đứng vút cao
cùng năm tháng
Ở đây tác giả đã lợi dụng
tính đồng âm của ngôn từ sao, cây sao …
Thường xuyên ngồi dưới vệ đường
nhìn xe cộ, người qua lại
Nhiều người ở bên nhau không
nói năng
Ngôn ngữ thơ của Từ Hoài Tấn
mới đọc qua có vẻ nhạt nhạt nhưng nghiền ngẫm kỹ mới thấm thía., những cây sao
cao vút được nhắc đi nhắc lại đến ba lần, thân phận con người ngồi dưới vệ đường
quá nhỏ nhoi tồi tệ, chỉ lấy mắt nhìn xe cộ, người qua lại, không nói năng
không biết làm gì …
Thời kinh tế khủng hoảng … thì
chính trị cũng khốn đốn, con người vẫn thường xuyên ngôi bên vệ đường lặng lẽ.
Phải là con người của tuổi đời
đã ngã về chiều, đã vỡ mộng. Sống trong tầm nhìn của dĩ vãng. Sự chia tay ngọt
lim và đau đớn như vết dao cắt trên ngực.
Đã kiệt sức trên những lối
mòn, cuộc sống như giam hãm trong những vòng kẻm gai buộc / Tìm cơn mộng
hàng đêm / Chỉ có thể cười
trong cõi khác …/ Ngày đi và đêm xuống mối tình em mang rơi theo / Hình như ta
không còn nữa / Như chiều xuống và lòng em rơi theo / Hạt bụi muốn bay theo
cùng gió (Khúc ban chiều).
Hiểu lời thơ không phải như
sự biểu hiện mà phải tìm về từ nguyên của tình cảm. Như mối tình em mang … ngày đi đêm xuống …, phải hiểu là tình em là lý
tưởng ta mang ở trong lòng cũng rơi theo với thời gian. Và đời ta kể như không
còn nữa. Thân như hạt bụi này muốn bay
theo gió. Để rồi một chiều có tiếng hát ai đó:
Có lời lệ của em xưa / Có ấm
hơi tình cũ kỹ / Có buồn thổi mộng thành thơ (Khúc hát chiều)
Thơ của THT mang đầy bản chất
thi tính “Poétique”., nhưng cái hay của bài thơ không phải ở đó mà chính là ở bản
chất tồn tại. Tính tồn tại đó ẩn kín sau ngôn từ, theo Heidegger chính đó là
chân lý nguyên thủy.
Khi có một thời đại mới hiện
ra thì người ta phát hiện cái tối sơ hiển hiện ra tinh thần tân thời đại và
nguyên tắc của nó chính là nghệ thuật. Nghệ thuật dùng cái thực tiễn phát hiện
của nó là tinh thần mới và cái nguyên tắc mới.
Cái đạo lý ấy là phạm vi to
lớn của dân tôc và của con người, mà chúng ta không thể nào cản được một cách
chân thiết. Mỗi cá nhân của con người chúng ta tự mình đều mang một vận mệnh.
Nhưng vận mệnh là một thứ tồn tại siêu việt tính, không giống như cảm tính sự vật
bình thường hàng ngày, chúng ta chỉ có thể trực tiếp biết được. Tự mình biết được
phải xử trí với vận mệnh ra sao? Đó là khi bị đau khổ chúng ta mới biết đến vận
mệnh. Thống khổ phát sinh không thể không đấu tranh. Chúng ta xác thực cần đến một thứ nổ lực, thống khổ
là một thứ thể nghiệm tình cảm sâu sắc, nó khiến chúng ta phải chụp bắt lấy tâm
linh của mình, bắt buộc phải quyết đoán, phải làm gì? Thật ra không có một thứ
lý luận có thể giúp chúng ta giải quyết được sự thống khổ, cùng quyết đoán bước
ngoặc quan trọng của đạo lộ nhân sinh. Thực tế chỉ có thể giải quyết qua con đường
nghệ thuật. Vận dụng tất cả các phương tiện công cụ: ca hát, nhảy múa, viết, vẽ,
điêu khắc, kể lể, than vãn, nói lên cái điều không nói được nghẹn ngào ...
“ Trả lại cho tình em
không còn cách nào giữ lại em giữa hai bờ sống chết / ... trả lại cho tình em
vì không còn cách nào giữ lại em / Khi em đã là người khác / Khi đôi mắt em là
ngọn lửa khác/ Khi lời tình yêu đã là tiếng vang vọng và khi ngày đã trở qua
đêm …(Chỗ không cùng)
Rõ là “niềm cô quạnh không nguôi”
Những con đường ôi những con
đường / Không gặp một con đường nào cả /
Cũng như nỗi cô đơn: Những
con đường ôi những con đường giống nhau / Mỗi ngày đi qua ôi mỗi ngày thường giống
nhau., phải hiểu đó là hình ảnh nhất nguyên nhàm chán, khắc nghiệt.
Sao chỉ có tình yêu không giống
em - nhỏ nhẹ âm thầm …
Đến đây tôi cũng như mạch suối
khô cạn, đúng hơn viết không ra chữ nữa mà phải mượn chữ của các danh nhân: “Có
lắm điều bí mật trong vũ trụ đã bị che dấu bằng cái áo khoác của ánh thái
dương” “Maulnier” hay như “Shakespeare” từng nói : Ngôn ngữ có thể biến đổi những
qui luật mà ở đó có nhiệm vụ trong vòng chức năng của nó “ Đổi xanh ra đỏ, đổi
trắng ra đen” như:
Tôi về qua đại lộ / Buổi
trưa / Con ngựa sắt khò khè
Hay:
Tháng giêng treo mình trên ngọn cây / ngoài trời nắng nóng 37 độ C / Bạn bè bốc
hơi tứ tán / núi và biển gọi…ngôn ngữ mang tính lơ lững …
không phải bất lực - mà như Foucault nói: Nó nắm vững những quyền lực mới.
Nhưng mơ hồ quá, nói về oi bức hạn hán thì lớp thơ trẻ Sài Gòn cũng thông thạo.,
tôi cầu cứu đến Nguyễn thị Ánh Huỳnh: Bầu trời hạn hán có tiếng chim đang nứt
nẻ cười /…cứu em với con chim thời gian / Bắt em làm tỳ thiếp … anh ơi!
Thơ là thông qua ngôn ngữ đạt
đến sự tồn tại. Thơ của THT trong tập đi đứng này…có đến 77 bài, tôi đã đọc hết
và nghiền ngẫm khá lâu cả năm trời. Tôi cũng không đủ thẩm quyền để nói rằng đó
là tập thơ toàn bích., nhưng sau khi phân tích và tìm hiểu phải mạnh dạn nói tập thơ đã đạt được phẩm chất tồn tại, nôm
na là đọc được “ Song trùng ngữ cảnh” hay ngữ cảnh nước đôi. Nói theo người
xưa thì thơ đã đượm màu thần bí, nó có cái “ vị ngoại vị” hay “huyền ngoại huyền”
“ tức là ăn hay uống đã qua khỏi cổ còn nghe có hương vị đậm đà hay tiếng đàn
đã dứt mà con có âm vang êm diu…” sự sáng tác của Từ Hoài Tấn đã theo đúng
nghĩa của nó, là có liên quan đến ý thức thời đại, và ý thức thẩm mỹ của dân tộc,
xã hội. hay nói như Maulpoix, nhà thơ không bao giờ xa lánh hoàn cảnh của con
người. Nó vừa tự tìm thấy nằm trong lòng của thế giới và có thể duy trì thành
vòng tròn bao quanh từ ngữ. Trong cảnh ngộ đó, nó nhấn mạnh và đào sâu sự nghịch
lý bằng cách dùng ngôn ngữ không phải đột xuất mà là để ghi khắc đến nơi đến chốn.
Làm một bài thơ là tự đối diện và tự nhận chìm mình.
Tiếc rằng tôi không còn sức
lực để viết về thơ Từ Hoài Tấn nhiều hơn, nhưng vẫn mong rằng với những phân
tích thô sơ, tôi cũng hèn nhát như tác giả: “không
thể mở miệng nói yêu em, …bởi lời nói bay ra khỏi miệng bờ môi - sẽ là lời kết
tội … cũng đủ đưa các bạn vào vườn thơ u ám nhưng đầy thích thú. Nó là sự
hiện hữu, là một lộ trình, nó là tác phẩm của sự sáng tạo định vị, hiện hữu
thâm nhập trong thời gian ghi khắc vào lịch sử, tùy thuộc vào xã hội và là một
phẩm loại có thể biểu hiện theo cấp số nhân làm mới lại những kết nối, cải
trang và sáng tạo cái điều nó chưa có và tự hồi tưởng lại cái nó không còn nữa.
Khổng
Đức
Tháng
3 năm 2014
GHI
CHÚ:
·
- Những chữ in nghiêng là thơ trích trong tập thơ của
Từ Hoài Tấn
· - Đi, đứng và chạy … với thời gian – Thơ Từ Hoài Tấn –
NXB Hội Nhà Văn tháng 11 năm 2012 – Bìa và phụ bản Lê Thánh Thư.
·
- Mời đọc toàn bộ tác phẩm tại đường link: http://art2all.net/chantran/chantran_tho/tuhoaitan/didung/ddcvtg.html
VÀI DÒNG VỀ TÁC GIẢ BÀI
VIẾT: KHỔNG
ĐỨC
Nhà nghiên cứu Khổng Đức - Ảnh MPK |
Tên thật : Đinh Tấn Dung
Sinh năm 1925 (Ất Sửu)
Tại : An Chỉ
, Hành Phước , Nghĩa Hành , Quảng Ngãi.
Hiện cư trú : 351/60 Lê
Văn Sỹ , Q3 , Tp.HCM.
Cử nhân giáo khoa Việt
Hán và Triết Đông tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn
Từng trải qua bốn năm
học hội họa.
Nghề nghiệp trước năm
1975: dạy văn và triết.
Tác phẩm đã xuất bản:
Thăng trầm quyền lực –
dịch Alvin Toffler - 1990
Tâm lý văn nghệ dịch Chu
Quang Tiềm – 1991
Từ Tống – biên sọan 1992
Hậu tây du ký dịch của
Trung Quốc 1994
Hí khúc Trung Quốc sọan
với Loan Cương 1998
Ngũ thiên tự soạn chung
với Vũ Văn Kính Long Cương các lọai Từ diển Hoa Việt,Việt Hoa.
Chuyên nghiên cứu về thi
ca và mỹ học triết học đông tây.
Bài viết do tác giả gởi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét